Quan nghiệp Đào Vũ Thường

Tuy làm quan huấn đạo bận dạy học trò trong huyện nhưng Cụ vẫn dùi mài kinh sử, luyện tập văn chương, năm 42 tuổi vượt 2000 cống sĩ, Cụ đậu tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính dần (1746) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 7 đời vua Lê Hiển Tông tại khoa thi hội ở Thăng Long, được nhà vua ban cho áo mũ, cờ biển, "Ấn tứ vinh quy" và được khắc tên vào bia đá đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử giám.

Theo quốc lễ triều Lê thời đó, mỗi tiến sĩ được cấp 30 mẫu đất để sinh cơ lập nghiệp, sinh con đẻ cháu đời đời. Cụ không nhận những chân ruộng tốt, những "bờ xôi ruộng mật" dân đã tốn công khai phá mà Cụ xin nhận đất ở cánh đồng mả Lờn thuộc tổng Cát Hộ, cạnh làng Yên Lũ để tránh tiếng "chưa đỗ ông Nghè đã đè hàng tổng". Đưa con cháu, dân làng đến khai phá đào sông dẫn thủy nhập điền trở thành ruộng đồng, làng mạc lập thành trại Đồng Lan từ đó.

Sinh thời, về đường quan trường sau khi đỗ tiến sĩ, Cụ được thăng chức Công khoa cấp sự trung, tiếp theo cụ được thăng chức Nghệ An Thanh bình Hiến sát sứ,Ngự sử Kinh Bắc.